Tin tức

Tin tức

​BỆNH SỐT TÂY SÔNG NIN

17/06/2016 In bài viết

_
BỆNH SỐT TÂY SÔNG NIN
(Febris occidentalis fluminis Nili)
ICD-10 A92.3:West Nile fever
Bệnh sốt Tây sông Nin (Nile) thuộc nhóm A trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
1. Đặc điểm của bệnh:
1.1. Định nghĩa ca bệnh:
* Ca bệnh lâm sàng: Bệnh khởi phát đột ngột với sốt cao trên 38,50C, kéo dài khoảng 7 ngày, sốt kiểu 2 pha (hình yên ngựa), đi cùng với các triệu chứng đau đầu, đau cơ, đau khớp, thường có ban đỏ dát sần hoặc ban kiểu sởi ở mặt và toàn thân; đôi khi có biểu hiện xuất huyết da, niêm mạc, nôn hoặc buồn nôn, tiêu chảy cấp, đau họng và ho, viêm kết mạc và sợ ánh sáng.
Một tỷ lệ nhất định bệnh nhân có biến chứng viêm màng não - viêm não, đôi khi có liệt mềm, thay đổi tâm tinh thần gặp ở 1% ca bệnh, thường rơi vào giai đoạn 2 của đợt sốt. Tỷ lệ tử vong chung thường dưới 5% số ca nhập viện, tuy nhiên trong một số vụ dịch có thể lên tới 18%, thường do hội chứng não, hôn mê và tử vong.
* Ca bệnh xác định:  Có thêm 1 hay nhiều kết quả xét nghiệm sau:
- Kháng thể IgM phát hiện trong giai đoạn cấp tính bằng phản ứng MAC- ELISA dương tính.
- Kháng thể IgG phát hiện qua xét nghiệm huyết thanh kép tăng ít nhất 4 lần.
- Phản ứng RT-PCR phát hiện dấu ấn di truyền vi rút dương tính.
- Phân lập được vi rút Tây sông Nin từ máu, dịch não tủy, bạch cầu hoặc mẫu sinh thiết, tử thiết.
1.2. Chẩn đoán phân biệt:
- Sốt Dengue, sốt xuất huyết Dengue, nhất là với các thể bệnh có viêm não, viêm màng não.
- Bệnh viêm não Nhật Bản, lưu hành tại khu vực Đông Nam Á, Nam Á.
- Các bệnh sốt do nhiễm vi rút, có biểu hiện của viêm màng não, viêm não hay viêm não-màng não, thường gặp do nhiễm một số vi rút khác thuộc họ Flaviviridae, vi rút đường ruột (Enteroviruses), vi rút nhóm Herpes.
Ngoài bệnh cảnh lâm sàng, nên làm thêm xét nghiệm để chẩn đoán phân biệt. Cần chú ý khả năng dương tính giả do kháng chéo của vi rút Tây sông Nin với một số vi rút nhóm Flavi.
1.3.  Xét nghiệm:
- Loại mẫu bệnh phẩm: Máu, lấy trong giai đoạn sớm (0 - 5 ngày sau khởi phát), hoặc trong giai đoạn muộn (14 - 21 ngày sau khởi phát). Ngoài ra, có thể lấy dịch não tủy (giai đoạn toàn phát bệnh), mẫu bạch cầu, gan, tổ chức não sinh thiết hoặc mô tử thi. 
- Phương pháp xét nghiệm: (i) Phản ứng MAC-ELISA đơn, phát hiện kháng thể IgM giai đoạn sớm của bệnh; (ii) Phản ứng GAC-ELISA, ngăn ngưng kết hồng cầu (HI), kháng thể trung hòa (NT) phát hiện kháng thể IgG ở máu và dịch não tủy; (iii) Phản ứng RT-PCR xét nghiệm dấu ấn ANR vi rút Tây sông  Nin; (iv) Phân lập vi rút trên chuột nhắt trắng ổ hoặc trên tế bào Vero.
2. Tác nhân gây bệnh:
- Vi rút Tây sông Nin (West Nile virus - WNV), thuộc họ Flaviviridae, loài Flavivirus. Vi rút Tây sông Nin có quan hệ về kháng nguyên với vi rút viêm não Nhật Bản.
- Hình thái: Vi rút có kích thước nhỏ, hình cầu, đường kính khoảng 50 nm, lõi nhân ARN, sợi đơn, dương 11 kb; cấu trúc vỏ 2 lớp với lipoprotein; Các protein cấu trúc như E, M và C đều có liên quan với khả năng gây bệnh của vi rút.
- Khả năng tồn tại ở môi trường: vi rút Tây sông Nin thích ứng và tồn tại lâu dài ở cơ thể nhiều loài động vật và muỗi. Tuy nhiên, chỉ tồn tại ngắn, trong một vài ngày ở môi trường biệt lập (máu, dịch não tủy) ở bên ngoài. Các hóa chất khử khuẩn thông thường (nhóm clo hoạt, nhóm alcol, các muối kim loại nặng, chất ô xy hóa, chất tẩy, xà phòng...), tia cực tím, bức xạ gamma và nhiệt độ trên 560C bất hoạt vi rút chỉ trong vài chục phút tới vài giờ. Vi rút có thể tồn tại lâu dài hơn (nhiều tháng) trong nhiệt độ âm sâu (-700C).
3. Đặc điểm dịch tễ học:
- Sốt Tây sông Nin là một bệnh động vật lây sang người, do muỗi truyền, lưu hành phổ biến ở hầu hết các quốc gia thuộc Châu Phi, Nam Âu, vùng Trung Đông, Tây Á, Châu Úc và Bắc Mỹ. Bệnh thường gặp hơn ở vùng nông thôn đồng bằng và bán sơn địa, nơi lưu trú của các loài thú móng guốc họ ngựa, các loài chim hoang dã như quạ, chim sẻ, ngỗng trời... bệnh cũng có thể gặp cả ở vùng đô thị. Việt Nam và các quốc gia khu vực Đông Nam Á tới nay chưa có ca bệnh được công bố.
- Bệnh dưới dạng tản phát hoặc thành các vụ dịch nhỏ trong vùng lưu hành. Tuy nhiên, những năm gần đây dịch có xu hướng lan rộng hơn ra nhiều khu vực trên thế giới và số mắc trong mỗi vụ dịch có chiều hướng gia tăng, tỷ lệ ca bệnh nặng có biểu hiện viêm não cũng tăng thêm. Tại Hoa kỳ, năm 1999 có 62 ca mắc, năm 2002 có tới trên 4000 ca. Năm 2003 có trên 9000 ca bệnh sốt Tây sông Nin được thông báo chỉ ở bang Colombia của Hoa Kỳ, có 222 trường hợp tử vong.
- Bệnh cũng có xu hướng dịch chuyển dần xuống phía Nam (Châu Mỹ) và sang phía Đông. Tuy nhiên, cường độ của vụ dịch và bệnh cảnh lâm sàng ở những vùng này có phần giảm đi, có thể do ảnh hưởng của miễn dịch có sẵn trong quần thể người và động vật gây bởi các loài Flavi vi rút lưu hành từ trước, như vi rút viêm não Nhật Bản, viêm não St.Louis hay do vắc xin 17D phòng bệnh sốt vàng được dùng khá rộng rãi ở những khu vực này.
- Bệnh có thể gặp quanh năm ở vùng lưu hành. Tuy nhiên, các vụ dịch thường xuất hiện vào các tháng nóng, mưa nhiều thuận lợi cho sự phát triển của loài muỗi.
- Nhóm người có nguy cơ cao lây nhiễm vi rút và phát bệnh là nhóm thanh niên và trung niên, có thể do đây là nhóm người có nhiều cơ hội phơi nhiễm với muỗi truyền bệnh và các động vật hoang dại. Tỷ lệ mắc ở trẻ em khoảng 5-7% và bệnh cảnh cũng có phần nhẹ hơn so với người trưởng thành. Người cao tuổi có thể mắc bệnh và thường có biến chứng viêm não và các bệnh lý thần kinh, tỷ lệ tử vong cao.
4. Nguồn truyền nhiễm:
- Ổ chứa quan trọng trong thiên nhiên của vi rút Tây sông Nin là loài ngựa và một số loài chim hoang dại như quạ, chim sẻ, ngỗng trời, vịt trời. Một số loài thú hoang dại và gia súc khác cũng có thể mang vi rút. Chu trình “ngựa/chim- muỗi”  là chu trình chính trong tự nhiên của vi rút. Con người ngẫu nhiên nhiễm vi rút khi tiếp cận với chu trình tự nhiên này, sau đó trở thành vật chủ phụ và hình thành nên chu trình “người-muỗi-người” tại cộng đồng đông dân cư. Trong các ổ dịch cứ 1 ca bệnh điển hình có từ 50 đến 300 trường hợp nhiễm vi rút không triệu chứng hoặc bệnh thoảng qua.
- Thời gian ủ bệnh: Từ 2 - 6 ngày, có thể kéo dài hơn tới 14 - 20 ngày (bệnh nhân nhận tạng ghép nhiễm vi rút Tây sông Nin).
- Thời kỳ lây truyền: Bệnh nhân là nguồn lây truyền ngay trước khi xuất hiện cơn sốt cho tới khi hết sốt, kéo dài trung bình khoảng 5-7 ngày. Người mang vi rút không triệu chứng thường có thời kỳ lây truyền ngắn hơn. Thời kỳ lây truyền của động vật nhiễm vi rút và ốm chưa rõ, có thể kéo dài nhiều tuần. Muỗi Culex nhiễm vi rút từ 7 ngày sau khi hút máu và có khả năng truyền bệnh suốt đời cho động vật và người.
5. Phương thức lây truyền:
- Bệnh lây truyền qua véc tơ, chủ yếu qua vết đốt hút máu của các loài muỗi họ Culex như C. univittatus ở Châu Phi, C. modestus Nam Âu, C. pipens molestus, C. quinquefasciatus ở Nam Mỹ,... Có tới gần 40 loài Culex ở Châu Phi, Châu Âu, Châu Á và trên 37 loài ở Châu Mỹ được phát hiện có thể mang vi rút Tây sông Nin. Ngoài ra một số họ muỗi khác như Aedes, Mansonia, Ochlerotstus có mặt ở các vùng lưu hành cũng có thể mang và làm lây truyền mầm bệnh.
- Ngoài đường lây truyền chính do côn trùng đốt hút máu, vi rút Tây sông Nin có thể lây theo một số phương thức khác như truyền máu, ghép phủ tạng có nhiễm vi rút, truyền qua nhau thai, qua sữa mẹ. Cũng đã có những trường hợp lây nhiễm xảy ra trong phòng thí nghiệm khi làm việc với vi rút Tây sông Nin.
6. Tính cảm nhiễm và miễn dịch: Mọi chủng người, giới tính, lứa tuổi đều có thể nhiễm vi rút Tây sông Nin và mắc bệnh nếu chưa có miễn dịch. Trong vùng bệnh lưu hành, nhiễm tự nhiên và mắc bệnh gặp cả ở trẻ em và người lớn. Tuy nhiên, tỷ lệ ca bệnh điển hình và nặng thường cao hơn ở nhóm người trưởng thành, đặc biệt trên nhóm cao tuổi. Trong vụ dịch tại Rumania năm 2001, số mắc bệnh thể điển hình lứa tuổi trên 50 gấp 10 lần so với lứa tuổi 5-18 tuổi, trong đó tỷ lệ tử vong ở nhóm lớn tuổi là 64%. Miễn dịch sau nhiễm vi rút hoặc mắc bệnh là lâu dài, có thể trong nhiều năm hoặc suốt đời.
7. Các biện pháp phòng, chống dịch:
7.1. Biện pháp dự phòng:
- Bệnh sốt Tây sông Nin chưa từng xuất hiện ở Việt Nam, tuy nhiên khả năng nguồn truyền nhiễm (người, động vật ốm), véc tơ xâm nhập và phát tán vào nước ta là có thể xảy ra. Biện pháp giám sát dịch tễ thường xuyên kết hợp kiểm dịch y tế biên giới, bao gồm cả kiểm dịch động vật, là rất quan trọng nhằm kịp thời phát hiện nguồn lây xâm nhập từ các khu vực có lưu hành bệnh trên thế giới. Kết hợp với cơ quan thú y, môi trường trong giám sát và kiểm soát dịch trên ngựa, động vật có móng guốc và chim hoang dại.
- Hướng dẫn nhân viên y tế các tuyến và tuyên truyền giáo dục cộng đồng để mọi người có những hiểu biết cơ bản nhất và biết cách phòng chống khi có nguy cơ cảnh báo về khả năng xâm nhập của vi rút gây bệnh sốt Tây sông Nin.
- Hiện chưa có vắc xin phòng bệnh; biện pháp kiểm soát, diệt bọ gậy/loăng quăng và muỗi trưởng thành của loài Culex được coi là rất quan trọng nếu xuất hiện vi rút gây bệnh ở nước ta. Biện pháp cụ thể để kiểm soát đối với muỗi truyền bệnh áp dụng giống như đối với bệnh viêm não Nhật Bản.
7.2. Biện pháp chống dịch:
7.2.1. Tổ chức.
- Báo cáo khẩn cấp cho cơ quan Y tế dự phòng tuyến trên, kể cả báo cáo vượt cấp, khi có ca bệnh nghi mắc sốt Tây sông Nin. Chỉ cần có 1 trường hợp nghi mắc bệnh sốt Tây sông Nin là đạt ngưỡng cảnh báo dịch, nếu là ca bệnh xác định thì có thể công bố dịch.
- Thành lập Ban chỉ đạo phòng chống dịch khẩn cấp khi có công bố dịch. Ban chỉ đạo hoạt động theo các điều khoản của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, áp dụng cho các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A.
7.2.2. Chuyên môn.
- Cách ly bệnh nhân: Bệnh nhân phải được theo dõi, điều trị bắt buộc tại khu cách ly nghiêm ngặt dành cho các bệnh thuộc nhóm A. Chủ yếu thực hiện biện pháp nằm màn, chống muỗi đốt trong thời kỳ lây truyền, kết hợp vệ sinh cá nhân, xử lý tốt chất thải của người bệnh. Làm tốt việc sàng lọc máu và tạng ghép để tránh lây nhiễm trong bệnh viện.
- Quản lý, theo dõi sức khỏe cho những người sống trong ổ dịch (khu vực chịu ảnh hưởng của véc tơ truyền bệnh), phát hiện kịp thời các trường hợp bệnh mới, điều trị đúng quy định để tránh chuyển thành bệnh nặng hoặc tử vong.
- Tăng cường các biện pháp diệt muỗi trưởng thành, thực hiện phun hóa chất dạng thể tích cực nhỏ (ULV) tại ổ dịch theo đúng chỉ định của Y tế dự phòng. Tăng cường biện pháp xua diệt chống muỗi đốt cho người và gia súc.
7.3. Nguyên tắc điều trị:
Bệnh sốt Tây sông Nin hiện chưa có thuốc đặc trị, vì vậy điều trị theo các nguyên tắc: phát hiện, chẩn đoán đúng bệnh; điều trị sớm; tập trung chủ yếu điều trị triệu chứng như giảm sốt, giảm đau, chống xuất huyết; chống tổn thương ở tổ chức não, màng não, trợ tim mạch, chống dị ứng; chỉ dùng kháng sinh khi có biểu hiện bội nhiễm vi khuẩn; hạn chế tối đa các biến chứng muộn.
7.4. Kiểm dịch y tế biên giới:
- Cá nhân tự khai báo bệnh khi quá cảnh.
- Thực hiện các biện pháp kiểm dịch, diệt véc tơ nhằm ngăn chặn sự lan rộng của muỗi Culex Aedes qua tầu thủy, máy bay và các phương tiện vận tải đường bộ từ nơi có dịch sốt Tây sông Nin tới các vùng khác.
- Kết hợp chặt chẽ kiểm dịch động vật khi quá cảnh.
 



 

Admin

Thong ke