​Chế độ dinh dưỡng - nâng cao miễn dịch phòng dịch virus corona

24/02/2020 In bài viết

Dinh dưỡng đóng một vai trò không nhỏ trong phòng và điều trị virus corona, đó là giải pháp nâng cao miễn dịch và sức đề kháng của cơ thể giúp công tác điều trị bệnh hiệu quả hơn.Đồng thời hệ miễn dịch - sức đề kháng và thể trạng cơ thể tốt thì có thể chống được căn bệnh này.
Dinh dưỡng đóng một vai trò không nhỏ trong phòng và điều trị virus corona, đó là giải pháp nâng cao miễn dịch và sức đề kháng của cơ thể giúp công tác điều trị bệnh hiệu quả hơn.Đồng thời hệ miễn dịch - sức đề kháng và thể trạng cơ thể tốt thì có thể chống được căn bệnh này.

Thế giới đang vật lộn với chủng mới của virus corona, dịch bùng phát nhanh và hết sức phức tạp, chỉ trong một thời gian ngắn có trên 500 người chết, trên 28.000 người nhiễm dịch bệnh và 27 quốc gia, vùng lãnh thổ xuất hiện bệnh. Tình hình dịch bệnh chưa có dấu hiệu bị đẩy lùi, vì những ca mắc mới vẫn luôn xuất hiện và rất lớn. Ở Việt Nam đã có ca thứ 15 mắc bệnh, con số này có thể còn tăng lên nếu không có các giải pháp căn cơ, phối hợp đồng bộ từ nhiều bộ ngành và các cấp chính quyền từ trung ương tới địa phương.

Dinh dưỡng đóng một vai trò không nhỏ trong phòng và điều trị virus corona, đó là giải pháp nâng cao miễn dịch và sức đề kháng của cơ thể giúp công tác điều trị bệnh hiệu quả hơn.Đồng thời hệ miễn dịch - sức đề kháng và thể trạng cơ thể tốt thì có thể chống được căn bệnh này. 

Không có một thức ăn nào là hoàn hảo và có đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết theo nhu cầu cơ thể, vì vậy cần đa dạng, phối hợp từ 15 - 20 loại thực phẩm và thay đổi thường xuyên trong bữa ăn hàng ngày. Khẩu phần ăn hàng ngày nên có sự phối hợp ở tỷ lệ cân đối giữa nguồn chất đạm động vật và thực vật (thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua, hải sản... đậu (đỗ)...). Ngoài ra, nên ăn cả dầu thực vật và mỡ động vật ở tỷ lệ cân đối trong khẩu  phần ăn. Tăng cường ăn vừng, lạc, đậu, rau xanh và hoa quả chín. Ăn đủ nhu cầu, cần phân chia hợp lý các bữa ăn trong ngày (tùy theo lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, mức độ lao động). Chế độ ăn đảm bảo đủ các nhóm thực phẩm:

Lương thực: gạo, đặc biệt là gạo lứt không bị xay xát kỹ, vẫn còn lớp cám gạo bên ngoài hạt gạo, có chứa hàm lượng dinh dưỡng cao hơn (các vitamin nhóm B nhất là vitamin B1, chất xơ). Năng lượng từ ngũ cốc chỉ nên chiếm 55 - 67% (tổng năng lượng khẩu phần, phần còn lại do các chất béo cung cấp chiếm 20 - 25% và 13 - 20% là từ chất đạm).
 
Chất đạm: cần ăn phối hợp cả thực phẩm giàu đạm động vật từ các loài gia súc, gia cầm, hải sản và đạm thực vật từ các loại đậu… Nên ăn thức ăn giàu đạm với tỷ lệ cân đối giữa nguồn đạm động vật và thực vật, tăng cường ăn đậu phụ và cá. Các loại thịt đỏ (như thịt lợn, thịt bò…) có nhiều sắt giúp phòng chống thiếu máu thiếu sắt, đặc biệt quan trọng đối với trẻ nhỏ, phụ nữ có thai và phụ nữ tuổi sinh đẻ. Ăn thịt ở mức vừa phải (không quá 100g/ngày/người trưởng thành, trung bình 1,5kg thịt/tháng).Các loại thịt đỏ không sử dụng quá 10% năng lượng, ưu tiên thịt gia cầm. Khuyến khích ăn cá, đậu phụ: ít nhất 3 bữa cá/tuần, trung bình 2,5kg cá/tháng và 2 - 3kg đậu phụ/tháng.

Chất béo: cần đảm bảo một tỷ lệ cân đối giữa nguồn chất béo động vật (mỡ lợn, mỡ gà...) và chất béo thực vật (dầu, đậu tương, vừng, lạc...). Nên giữ trong khẩu phần hàng ngày ít nhất là 40% chất béo thực vật, chất béo động vật không nên vượt quá 60%, nên ăn phối hợp cả mỡ động vật và dầu thực vật, không nên thay thế hoàn toàn mỡ động vật bằng các chất béo thực vật. Mỗi người trưởng thành mỗi ngày trung bình nên ăn khoảng 25 - 30g dầu, mỡ tương đương 5 - 6 thìa cà phê dầu, mỡ.
 
Rau và quả chín: Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo nên ăn từ 400 - 600g rau quả mỗi ngày; rau quả là nguồn cung cấp các vitamin - khoáng chất và chất xơ. Vitamin và chất khoáng rất cần thiết cho sức khỏe con người, cơ thể chỉ cần một lượng rất nhỏ nhưng nó có vai trò rất quan trọng. Nếu cơ thể thiếu vitamin và chất khoáng có thể dẫn tới một số bệnh và giảm khả năng miễn dịch chống lại các virus, vi khuẩn gây bệnh. Vitamin và khoáng chất giúp nâng cao sức đề kháng và miễn dịch, phải kể đến các vitamin tan trong chất béo đó là: vitamin A và vitamin E, chất khoáng là sắt, kẽm,… Sử dụng các loại thực phẩm có kháng sinh tự nhiên như hành, tỏi, sả, lá mơ,…Có thể dùng từ 2 - 3 nhánh tỏi sống trong bữa ăn hoặc dùng khi chế biến thức ăn.
Một số vitamin và khoáng chất nâng cao sức đề kháng.

Vitamin A: người ta còn gọi là “vitamin chống nhiễm khuẩn, virus” có vai trò rõ rệt cả với miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn ở trẻ em mà nguyên nhân do thiếu vitamin A rất cao. Thiếu vitamin A liên quan chặt chẽ đến suy dinh dưỡng (tăng trưởng kém), tăng nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng và tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Những nghiên cứu gần đây đã khẳng định rằng biện pháp bổ sung vitamin A có thể làm giảm 23% tử vong ở trẻ em. Vai trò của vitamin A với đáp ứng miễn dịch được thể hiện ở vai trò của vitamin A với tính toàn vẹn của các biểu mô. Thiếu vitamin A các biểu mô quá sản, sừng hóa, các tuyến ngoại tiết giảm bài tiết, khả năng ngăn cản sự xâm nhập của vi khuẩn giảm đi. Da và niêm mạc khô dẫn đến dễ nhiễm khuẩn. Đồng thời, nếu bôi mỡ có chứa vitanmin A vào các tổn thương ở da có tác dụng thúc đẩy quá trình nhanh liền sẹo. Vitamin A có nhiều trong gấc, rau ngót, rau dền cơm, gan gà, gan lợn, gan bò,...

Vitamin E: vitamin E làm tăng tính miễn dịch bằng cách bảo vệ tế bào khỏi bị tổn thương, do đó tăng sức đề kháng của cơ thể với các bệnh nhiễm khuẩn mạnh hơn, làm chậm tiến triển bệnh sa sút trí tuệ (Alzheimer), bảo vệ vitamin A và chất béo của màng tế bào khỏi bị oxy hóa, tham gia vào chuyển hóa tế bào. Vitamin E bảo vệ các chất béo trong não khỏi các gốc tự do, đặc biệt là các chất béo omega-3 DHA và EPA, trong đó tập trung ở tế bào thần kinh. Bên cạnh việc bảo vệ tế bào thần kinh, vitamin E cũng có liên quan đến phòng chống bệnh ung thư và bảo vệ tim mạch. Vitamin E có nhiều trong các thực phẩm nguồn gốc tự nhiên như đậu tương, giá đỗ, vừng, lạc, mầm lúa mạch, dầu hướng dương, dầu ô-liu và các loại rau có lá màu xanh đậm.

Vitamin C: tăng cường miễn dịch, hỗ trợ sản xuất interferon là loại protein do tế bào cơ thể tạo ra để chống lại tác nhân gây bệnh, là thành phần đạm quan trọng của hệ miễn dịch. Thiếu vitamin C, sự nhạy cảm với các bệnh nhiễm khuẩn tăng lên. Người bị nhiễm khuẩn, vitamin C trong máu thường giảm, thiếu vitamin C, tính thấm mao mạch tăng, mạch dễ vỡ, da khô ráp. Nếu ăn đủ vitamin C, các glubulin miễn dịch IgA và IgM tăng, hoạt tính của bạch cầu tăng, kích thích chuyển dạng các lymphô bào và giúp tạo thành các bổ thể. Vitamin C giúp tăng hấp thu các chất khoáng vi lượng (sắt, kẽm…) là những vi chất dinh dưỡng cần thiết cho hoạt động trí não. Cần đa dạng, phối hợp từ 15 - 20 loại thực phẩm và thay đổi thường xuyên trong bữa ăn hàng ngày. Hơn 90% lượng vitamin C có trong khẩu phần ăn được cung cấp từ các loại trái cây và rau củ. Các thực phẩm giàu vitamin C: rau ngót, rau mùi tàu, rau dền, rau đay, rau mồng tơi, hành hoa,… trong các loại quả như bưởi, đu đủ, quýt, cam, chanh,…

Vitamin nhóm B: trong các vitamin nhóm B, vai trò các folat và pyridoxin đáng chú ý hơn cả. Thiếu folat làm chậm sự tổng hợp của các tế bào tham gia vào các cơ chế miễn dịch.Tương tự như thiếu sắt, miễn dịch dịch thể ít bị ảnh hưởng hơn miễn dịch qua trung gian tế bào. Trên thực tế ở trẻ em, nhất là phụ nữ có thai, thiếu folat thường đi kèm thiếu sắt là 2 yếu tố gây thiếu máu dinh dưỡng. Thiếu pyridoxin (vitamin B6) làm chậm các chức năng miễn dịch, cả dịch thể và trung gian tế bào. Các vitamin  nhóm B có nhiều trong cám gạo, ngũ cốc, các loại hạt đậu, mè, mầm lúa mì, tim, gan. Một số chất khoáng và miễn dịch Rất nhiều chất khoáng và vi khoáng tham gia vào miễn dịch, trong đó vai trò của sắt, kẽm được nghiên cứu nhiều hơn cả.

Sắt: cần thiết cho tổng hợp gien di truyền  ADN, nghĩa là nó cần thiết cho quá trình phân bào. Ngoài ra, sắt còn tham gia vào nhiều enzym can thiệp vào quá trình phân giải bên trong tế bào. Thiếu sắt, nhiễm khuẩn tăng. Thiếu sắt thường kèm theo thiếu protein - năng lượng, do vậy khi bổ sung sắt cho trẻ em suy dinh dưỡng cần chú ý sau khi đã phục hồi dinh dưỡng từ 5 - 7 ngày, nếu không sắt tự do sẽ là yếu tố thuận lợi cho phát triển các vi khuẩn. Sắt gây ảnh hưởng đến miễn dịch qua trung gian tế bào hơn là miễn dịch dịch thể. Do đó tiêm chủng để chống các bệnh nhiễm khuẩn vẫn có tác dụng ở những trẻ em bị thiếu sắt vừa phải. Ở nơi có bệnh sốt rét, việc bổ sung sắt cần đi kèm với uống thuốc phòng sốt rét. Sắt có nhiều trong mộc nhĩ, nấm hương, rau dền đỏ, đậu tương, tiết bò, bầu dục lợn, lòng đỏ trứng vịt, cua đồng...

Kẽm: kẽm có vai trò sinh học rất quan trọng là tác động chọn lọc lên quá trình tổng hợp, phân giải acid nucleic và protein. Kẽm giúp tăng cường miễn dịch, giúp làm vết thương mau lành và giúp duy trì vị giác, khướu giác.Kẽm tham gia vào hàng trăm enzym chuyển hóa trong cơ thể, vì vậy khi thiếu kẽm trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu hóa do giảm sức đề kháng.Ngoài ra, khi thiếu kẽm trẻ thường có biểu hiện biếng ăn, chậm lớn, chậm phát triển chiều cao. Các thức ăn giàu kẽm như thịt, cá, tôm, sò, sữa, trứng, ngao, hàu...

Khi lựa chọn thực phẩm và chế biến thức ăn: thực phẩm lựa chọn phải tươi sống; không ăn những loại gia cầm và gia súc bị chết do nhiễm bệnh. Không ăn khi thực phẩm còn sống: ăn tái, ăn gỏi, tiết canh, trứng ốp la, trứng lòng đào,...Cần ăn chín, uống sôi (nước sôi để nguội nếu trời nóng, nước ấm khi trời lạnh). Thực hiện 10 lời khuyên vàng trong chế biến thực phẩm, đặc biệt là vệ sinh dao thớt và rửa tay bằng xà phòng trước, trong, sau khi chế biến thực phẩm. Các thức ăn cần nấu chín kỹ, chế biến dạng lỏng, hay mềm, dễ tiêu hóa và theo sở thích của từng người.

Uống đủ nước theo nhu cầu, từ 2 lít - 2,5 lít nước/người. Có thể dùng nước chanh, nước cam, nước sả, nước gừng… tùy theo cơ thể mỗi người. Giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ, thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, nhỏ mắt bằng nước muối sinh lý. Thường xuyên vệ sinh đường hô hấp trên thông thoáng, sạch sẽ bằng nước súc miệng, hoặc nước muối sinh lý.Không nên tới chỗ đông người khi không cần thiết, đặc biệt những điểm du lịch, lễ hội vì dễ tiếp xúc nguồn lây nhiễm. Khi hắt hơi, sổ mũi, ho cần che miệng hoặc dùng khăn tiệt trùng lau và vứt vào sọt rác, đồng thời rửa và làm khô tay.

Thường xuyên đeo khẩu trang đúng kỹ thuật khi ra ngoài, đến chỗ đông người, tiếp xúc với người khác.

Vitamin và khoáng chất trong bữa ăn hàng ngày có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao sức đề kháng của cơ thể, giảm nguy cơ nhiễm virus corona, Covid-19, bệnh nhiễm trùng và giảm tỷ lệ tử vong. Ngoài ra, nên bổ sung các dạng siro, hay dạng cốm đa vitamin- khoáng chất khác cho trẻ em, hay viên đa vitamin khoáng chất cho người lớn giúp cho nâng cao sức đề kháng và miễn dịch, mà trong thành phần các sản phẩm dinh dưỡng này còn có các thành phần như vitamin A, E, C, kẽm, selen…, trong đó quan trọng hơn cả là vitamin A, C và kẽm.
 
Ban biên tập trang thông tin điện tử Cục Y tế dự phòng

Admin

Tin tức liên quan

Phòng thừa cân béo phì: Dinh dưỡng lành mạnh và lối sống năng động

Những thập kỷ gần đây, chúng ta đã thay đổi về chế độ ăn uống và thói quen ăn uống vì lý do toàn cầu hóa, đô thị hóa và tăng thu nhập. từ các món ăn chủ yếu chứa thực vật và giàu chất xơ (gạo và rau/củ/quả) sang chế độ ăn uống giàu calo, nhiều tinh bột mịn, đường, chất béo, muối, thực phẩm chế biến sẵn, thịt và các sản phẩm nguồn gốc động vật khác.

Xem chi tiết Next

​Thay đổi thói quen để ngừa cảm lạnh

Cảm lạnh thông thường (còn được gọi là viêm mũi họng, sổ mũi cấp hoặc cảm lạnh). Nguyên nhân gây nên cảm lạnh thông thường phần lớn là do virus.
Người ta cũng hay bị cảm lạnh hơn trong những ngày lạnh và mưa do một số virus gây cảm lạnh xuất hiện theo mùa và xảy ra thường xuyên hơn trong điều kiện thời tiết lạnh hoặc ẩm ướt. Chính vì vậy, việc phòng bệnh là rất quan trọng.

Xem chi tiết Next

​Vệ sinh nhà cửa đúng cách để phòng dịch bệnh COVID - 19

Thường xuyên lau dọn, khử trùng nhà cửa sạch sẽ, giữ không gian luôn thông thoáng để phòng tránh bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của COVID - 19.

Xem chi tiết Next

Bệnh đái tháo đường có di truyền?

Đái tháo đường là một rối loạn chuyển hóa, trước hết, cần hiểu rõ về chuyển hóa chất glucose trong máu ở người bình thường như thế nào. Glucose có trong thức ăn khi đến dạ dày sẽ ngấm qua thành ruột vào máu làm tăng glucose trong máu. Khi đó, tuyến tụy sẽ tiết ra một chất tên là insulin, gọi nôm na là chìa khóa, có tác dụng giúp đưa glucose vào trong các tế bào (chủ yếu tế bào gan, tế bào cơ và tế bào mỡ) tạm gọi là các kho để sử dụng hoặc dự trữ.

Xem chi tiết Next
Thong ke