Tin tức

Tin tức

​Hỏi đáp về bệnh và vắc xin tiêm phòng bệnh Viêm Gan B

14/03/2017 In bài viết

Viêm gan B là một bệnh gây viêm và hoại tử tế bào gan cấp tính hay mạn tính do vi rút viêm gan B. Trên thế giới ước tính có khoảng hơn 2 tỷ người (30% dân số) bị nhiễm vi rút viêm gan B và hơn 400 triệu người bị bệnh gan mạn tính. Hàng năm, ít nhất có khoảng 1 triệu người trên thế giới tử vong do xơ gan và ung thư gan.

Câu hỏi 1: Tại sao phải tiêm vắc xin viêm gan B?
Trả lời:
Viêm gan B là một bệnh gây viêm và hoại tử tế bào gan cấp tính hay mạn tính do vi rút viêm gan B. Trên thế giới ước tính có khoảng hơn 2 tỷ người (30% dân số) bị nhiễm vi rút viêm gan B và hơn 400 triệu người bị bệnh gan mạn tính. Hàng năm, ít nhất có khoảng 1 triệu người trên thế giới tử vong do xơ gan và ung thư gan.

Việt Nam là nước thuộc vùng có tỷ lệ lưu hành bệnh viêm gan B cao (khoảng 10-20%) đặc biệt tỷ lệ mang vi rút viêm gan B ở phụ nữ có thai từ 10-16% và ở trẻ em là 2-6%.

Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, tiêm vắc xin viêm gan B là cách phòng bệnh hiệu quả nhất.

Câu hỏi 2: Vi rút viêm gan B lây truyền như thế nào?
Trả lời:
Vi rút viêm gan B có thể lây truyền qua các đường sau:
Lây từ mẹ qua con (chu sinh): Trẻ sơ sinh là nguồn nhiễm vi rút viêm gan B chủ yếu ở nhiều nước trên thế giới. Lây truyền vi rút từ mẹ sang trẻ trong lúc sinh rất dễ dàng.

Lây truyền từ trẻ qua trẻ: Lây truyền thường xảy ra ở nhà, bệnh viện nhi, trường học và nhà trẻ. Cơ chế lây truyền từ trẻ qua trẻ có thể liên quan đến sự tiếp xúc các vết thương, vết trầy xước nhỏ ở da, niêm mạc có chảy máu, hay dịch tiết của vết thương. Vi rút viêm gan B cũng có thể lây truyền bằng cách tiếp xúc với nước bọt thông qua vết cắn, vết trầy xước khác ở da và cũng như qua sự nhai thức ăn trước cho trẻ.
Lây truyền qua sự tiêm chích và truyền máu: Tiêm không an toàn là đường lây truyền chủ yếu của vi rút viêm gan B và những bệnh khác (viêm gan C, HIV) trên nhiều quốc gia.
Lây truyền trong khi quan hệ tình dục: Khi có trầy xước, tiếp xúc với máu hoặc các dịch khác của cơ thể.

Câu hỏi 3: Làm thế nào trẻ sơ sinh có thể tiếp xúc với vi rút viêm gan B?
Trả lời:
Trong giai đoạn mang thai rất hiếm xảy ra lây truyền từ mẹ sang con, không quá 2%. Vi rút viêm gan B lây truyền từ mẹ sang con chủ yếu vào thời gian sinh đẻ. Ở thời điểm này, khi tử cung co thắt, các mạch máu nơi nhau bám cũng bị co thắt có thể giúp máu mẹ tiếp xúc trực tiếp với máu con (bình thường máu mẹ và máu con không tiếp xúc nhau mà chỉ trao đổi chất tại bánh nhau) hoặc khi trẻ chui qua ống âm đạo của mẹ, sự lây truyền sẽ diễn ra trong thời điểm này. Nếu mẹ bị nhiễm có HBsAg+ và HBeAg+ thì 90% trẻ sẽ bị lây truyền; hoặc mẹ nhiễm chỉ có HBsAg+ thì khả năng lây truyền là 10%. Vi rút có thể truyền sang trẻ khi tiếp xúc gần gũi với người bị nhiễm trong gia đình, người chăm sóc.

Câu hỏi 4: Tại sao phải tiêm vắc xin trong 24 giờ sau sinh?
Trả lời:

Đây là cách tốt nhất để phòng lây truyền vi rút viêm gan B từ mẹ sang con. Trẻ sơ sinh bị nhiễm vi rút viêm gan B từ mẹ sẽ có nguy cơ trở thành bệnh mãn tính là 90% và khoảng 25% trong số đó sẽ chết vì ung thư gan và xơ gan.

Việc tiêm vắc xin thực hiện càng sớm thì hiệu quả càng cao, với mũi tiêm trong 24 giờ có khả năng phòng được 85-90% các trường hợp lây truyền từ mẹ sang con. Hiệu quả phòng ngừa sẽ giảm dần theo từng ngày từ 50-57% và không đạt được nếu tiêm sau 7 ngày.

Tiêm vắc xin viêm gan B sớm không chỉ có hiệu quả tốt phòng lây truyền viêm gan B từ mẹ sang con trong khi sinh mà còn giúp trẻ sơ sinh SỚM được bảo vệ phòng lây truyền viêm gan B từ các thành viên khác trong gia đình, người chăm sóc trẻ hoặc từ những trẻ khác qua tiếp xúc trực tiếp với vết xước, chảy máu.

Tiêm vắc xin viêm gan B mũi 1 càng sớm càng tốt nhằm mục đích bảo vệ trẻ sơ sinh đã phơi nhiễm với vi rút ngay khi sinh, đây là một sự cạnh tranh giữa sự nhân lên của vi rút và vắc xin tạo ra kháng thể kịp thời trung hòa vi rút đang có trong cơ thể, do đó nhiều nước đã tiêm ngay trong vòng 12 giờ.

Câu hỏi 5: Việc tiêm vắc xin viêm gan B trong 24 giờ đầu sau sinh ở Việt Nam có phải là chủ trương của Bộ Y tế? Những quốc gia nào áp dụng lịch tiêm chủng này?
Trả lời:
Tiêm chủng vắc xin viêm gan B cho trẻ trong 24 giờ nhằm mục đích phòng chống lây truyền vi rút viêm gan B từ mẹ sang con. Đây là chiến lược của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và là chỉ đạo của Bộ Y tế, Chương trình Tiêm chủng mở rộng Quốc gia trong phòng chống bệnh viêm gan B.

Thống kê của WHO năm 2006, trong 193 quốc gia có 163 (84%) nước triển khai tiêm vắc xin viêm gan B trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng, trong đó 81 (42%) quốc gia thực hiện tiêm cho trẻ sơ sinh trong 24 giờ đầu sau sinh, kể cả các nước đã phát triển như Mỹ, Canada…

Câu hỏi 6: Nếu không tiêm vắc xin viêm gan B được trong vòng 24 giờ sau khi sinh thì có thể tiêm sau đó được không?
Trả lời:
Tiêm vắc xin viêm gan B tốt nhất là trong 24 giờ đầu sau khi sinh, nếu không tiêm được thì cần tiêm sớm sau đó ngay khi có thể (tiêm trong vòng 7 ngày sau sinh).

Vắc xin viêm gan B có thể tiêm cùng 1 ngày với các vắc xin khác mà không ảnh hưởng đến sự đáp ứng miễn dịch của vắc xin.

Câu hỏi 7: Tiêm vắc xin viêm gan B ngay sau khi sinh có sớm quá không?
Trả lời:
Tiêm vắc xin viêm gan B ngay sau khi sinh không phải là can thiệp đầu tiên đối với trẻ sơ sinh. Tại các cơ sở y tế trẻ vẫn được tiêm vitamin K cho trẻ ngay sau khi sinh. Vắc xin BCG phòng lao cũng được khuyến cáo nên tiêm sớm sau sinh.

Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới và chỉ đạo của Bộ Y tế, vắc xin viêm gan B cần được tiêm cho trẻ sơ sinh trong vòng 24 giờ đầu sau sinh.

Tuy nhiên trẻ mới sinh cũng cần có thời gian thích nghi với môi trường bên ngoài, sự ổn định nhịp thở, da hồng, bú tốt là những dấu hiệu chứng tỏ một trẻ khỏe mạnh, khi đó có thể tiêm vắc xin mà vẫn đảm bảo trẻ được tiêm trong vòng 24 giờ sau khi sinh.

Câu hỏi 8: Bà mẹ xét nghiệm HBsAg âm tính có nên tiêm vắc xin viêm gan B cho trẻ trong vòng 24 giờ không?
Trả lời:
Ở một số quốc gia đã phát triển, lưu hành viêm gan ở mức thấp, đường lây truyền từ mẹ sang con không phải là chủ yếu, nhưng cũng tiêm vắc xin viêm gan B từ rất sớm, thậm chí thực hiện tiêm trong vòng 12 giờ đầu sau sinh. Trường hợp mẹ có xét nghiệm HBsAg âm tính, trên lý thuyết là không mắc viêm gan B, tuy nhiên vẫn tiêm vắc xin ngay sau sinh vì một số lý do sau:

– Xét nghiệm âm tính giả trong khi mẹ vẫn đang nhiễm vi rút viêm gan B; chưa kể chất lượng xét nghiệm, ghi chép nhầm, báo cáo nhầm.
– Mẹ đang nhiễm ở thời kỳ cửa sổ (30 – 60 ngày) nên không phát hiện được qua xét nghiệm.
– Một số trường hợp chủng đột biến vi rút viêm gan B nên có thể lẩn tránh hệ thống miễn dịch và không phát hiện được qua xét nghiệm máu.
– Mẹ xét nghiệm HBsAg âm tính nhưng đứa trẻ có thể bị phơi nhiễm viêm gan B trong phòng sinh từ một sản phụ khác hoặc nhân viên y tế, từ người thân khác đang mắc viêm gan B.


Đặc biệt, Việt Nam là nước có tỷ lệ lưu hành ở mức cao do đó việc tiêm vắc xin viêm gan B ngay trong vòng 24 giờ không chỉ phòng lây truyền từ mẹ sang con mà còn lây ngang từ môi trường xung quanh, người thân, người chăm sóc trẻ.

Câu hỏi 9: Những trường hợp nào không nên tiêm vắc xin viêm gan B trong vòng 24 giờ sau khi sinh?
Trả lời:
Hoãn tiêm đối với trẻ đang ốm, sốt, mắc các bệnh nhiễm trùng cấp tính.

Đối với những trẻ đẻ non, cân nặng thấp, đẻ khó, mẹ bị sốt trước và sau khi sinh, nước ối bẩn, con bị ngạt, thai già tháng, trẻ dị tật … cần được thăm khám cẩn thận để tránh các trường hợp trùng hợp ngẫu nhiên.

Câu hỏi 10: Tiêm vắc xin viêm gan B trong vòng 24 giờ sau khi sinh có thể gặp những phản ứng gì ?
Trả lời:
Vắc xin viêm gan B rất an toàn và đã được tiêm ở nhiều nước trên thế giới.

Sau khi tiêm có thể có các phản ứng thông thường như đau tại chỗ tiêm là 3 – 9%, sốt trên 37,7 độ C là 0,4 đến 8%.

Sốc phản vệ là phản ứng hiếm gặp được ghi nhận với tỷ lệ ước tính là 1 trường hợp trên 600.000 đến 1.000.000 liều vắc xin.

Câu hỏi 11: Làm thế nào để phát hiện sớm phản ứng sau tiêm vắc xin viêm gan B?
Trả lời:
Các bà mẹ cần biết con mình đã được tiêm vắc xin viêm gan B.

Sau tiêm trẻ cần được theo dõi 30 phút tại điểm tiêm chủng và dặn bà mẹ theo dõi ít nhất một ngày (24 giờ) sau khi tiêm.

Sau tiêm trẻ có thể quấy khóc hơn, các bà mẹ nên chú ý đến trẻ hơn và cho trẻ bú khi trẻ thức, không nên nằm cho trẻ bú.

Sau tiêm trẻ có thể có phản ứng thông thường như sốt, đau hoặc sưng tấy tại chỗ tiêm, quấy khóc v..v. Các bà mẹ cần cho trẻ bú nhiều hơn hoặc uống nhiều nước, chườm mát và theo dõi trẻ.

Đưa trẻ tới cơ sở y tế nếu phản ứng kéo dài hơn một ngày hoặc phản ứng trở nên nghiêm trọng hơn như trẻ sốt cao hay có những biểu hiện khác thường như quấy khóc kéo dài, tím tái, khó thở, bú ít, bỏ bú…

Bệnh viêm gan B là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút viêm gan B gây ra. Bệnh có khả năng lây nhiễm rất cao. Trên thế giới ước tính có khoảng 350 triệu người nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính. Tổ chức Y tế thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương ước tính mặc dù khu vực này chiếm 28% dân số thế giới nhưng gánh nặng bệnh tật gây ra do vi rút viêm gan B lên tới gần một nửa tổng số các trường hợp nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính trên toàn thế giới. Việt Nam là nước có tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B cao. Một trong những đường lây truyền nguy hiểm nhất của bệnh viêm gan B là lây truyền từ mẹ sang con.

Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo rằng để có thể giảm tỷ lệ mắc viêm gan B ở trẻ 5 tuổi xuống thấp hơn 1%, tiến tới loại trừ bệnh viêm gan B thì cùng với việc duy trì tỷ lệ tiêm 3 mũi vắc xin viêm gan B đạt trên 90%, tỷ lệ tiêm vắc xin viêm gan B trong 34 giờ đầu sau sinh phải đạt trên 65%.

Tài liệu “Hỏi đáp về tiêm vắc xin phòng bệnh viêm gan B” được biên soạn nhằm cung cấp các thông tin về bệnh viêm gan B, vắc xin viêm gan B, đặc biệt các kiến thức liên quan tới việc tiêm vắc xin viêm gan B cho trẻ sơ sinh trong 24 giờ đầu sau sinh. Các nội dung trong cuốn sách đã được trích dẫn từ các tài liệu của Chương trình Tiêm chủng mở rộng cập nhật theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới, các kết quả nghiên cứu đáng tin cậy ở trong nước và quốc tế. Hy vọng đây sẽ là cuốn sách tham khảo thiết thực và bổ ích cho các cán bộ y tế cũng như các bậc cha mẹ.

Dự án TCMR



 

Admin

Tin tức liên quan

Kết quả hoạt động Chương trình FETP dài hạn giai đoạn 2011-2015

Chương trình học lý thuyết được thiết kế theo hình thức mô-đun như khung chương trình đã được xây dựng, với 8-9 mô đun về lý thuyết sẽ được tổ chức cho một khóa học trong 2 năm xen kẽ với các đợt thực địa. Các mô đun quan trọng và cần thiết bao gồm: giới thiệu khóa học, điều tra vụ dịch, giám sát y tế công cộng, thống kê sinh học, thiết kế nghiên cứu dịch tễ, đáp ứng tình huống khẩn cấp, viết báo cáo khoa học và trình bày báo cáo và quản lý, ngoài ra còn có các mô đun mở rộng và tham gia các khóa học ở nước ngoài về điều tra dịch chung, thiết kế nghiên cứu lâm sàng, đánh giá nguy cơ... Trong các mô đun lý thuyết ngoài các học viên FETP dài hạn còn có sự tham gia của các học viên từ các đơn vị trong và ngoài hệ thống y tế, các ngành liên quan khác để có tăng cường giao lưu, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và tạo nguồn cho các khóa tiếp theo. Tham gia giảng dạy và hướng dẫn là các chuyên gia quốc tế và trong nước có chuyên môn sâu và nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực trên.

Xem chi tiết Next

Hỏi đáp về bệnh Bại liệt và vắc xin phòng bệnh Bại liệt

Thực hiện Kế hoạch bảo vệ thành quả thanh toán bệnh bại liệt giai đoạn 2016-2020 được Bộ Y tế phê duyệt tại quyết định số 1358/QĐ-BYT ngày 14 tháng 4 năm 2016, Dự án Tiêm chủng mở rộng thực hiện chuyển đổi sử dụng vắc xin bại liệt uống 2 týp (bOPV) thay thế cho vắc xin bại liệt uống 3 týp (tOPV) trên cả nước từ tháng 5 năm 2016 cùng với hơn 150 quốc gia để hướng tới mục tiêu thanh toán bệnh bại liệt trên toàn cầu.

Xem chi tiết Next

Hội thảo phối hợp đào tạo dịch tễ học thực địa Việt Nam

Trong khuôn khổ hoạt động của Dự án Chương trình An ninh Y tế toàn cầu (GSHA) do Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (USCDC) tài trợ, Cục Y tế dự phòng phối hợp với Mạng lưới SAFETYNET tổ chức hội thảo phối hợp đào tạo dịch tễ học thực địa (FETP) và họp ban liên lạc cựu học viên FETP Việt Nam .

Xem chi tiết Next

Uống vắc xin bại liệt là cách tốt nhất để phòng bệnh bại liệt

Bệnh Bại liệt là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút polio gây ra. Bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa và rất dễ lây. Đa số trường hợp trẻ nhiễm vi rút polio không có biểu hiện lâm sàng nhưng một số trường hợp bị liệt cơ hô hấp, dẫn đến suy hô hấp và có thể tử vong. Bệnh có thể qua khỏi nhưng để lại di chứng liệt suốt đời. Cách tốt nhất để phòng bệnh bại liệt là cho trẻ uống vắc xin phòng bệnh.

Xem chi tiết Next
Thong ke